“Có một câu chuyện mà tôi đã kể khoảng một triệu lần khác nhau và nó sẽ kiểu thế này:”
“Khi tôi 10 tuổi, gia đình tôi đã đóng gói toàn bộ hành lý trong những chiếc vali lớn và tha lôi băng qua Thái Bình Dương đến Canada.
Ở trường, tôi là đứa trẻ châu Á duy nhất trong lớp. Tôi bị trêu chọc vì tiếng Anh lõm bõm, vì tôi là dân châu Á. Bữa trưa của tôi toàn các món kì cục.
Ban đầu tôi cảm thấy tệ, nhưng rồi tôi đã trải qua những biến cố kỳ diệu, giúp tôi quyết tâm thay đổi vận mệnh. Tôi đã tham gia các hoạt động ngoại khóa và học tập chăm chỉ.
Tôi đứng trước các bạn ngày hôm nay là một con người khoẻ mạnh, tri thức, và sẽ mang lại nhiều giá trị.
Bạn nhìn vào tôi, và hãy tưởng tượng rằng, tôi đã từng là một cô bé nhập cư kỳ lạ.”
“Đây là một câu chuyện mà tôi đã kể ở khắp mọi nơi, trong các buổi phỏng vấn xin việc, trong các cuộc thi, thậm chí trong cả đơn nộp vào các trường Đại học hàng đầu. “
“Mặc dù hoàn toàn là sự thật, nhưng tôi đã dần trở lên chán ghét câu chuyện này. “
“Tôi nhận thấy, motif này đang tiếp tục được nhào nặn lại và được tất cả các trẻ em nhập cư trên toàn quốc sử dụng. “
“Các trường ĐH danh tiếng hàng năm phải nhai đi nhai lại hàng ngàn bài luận với motif tương tự kiểu “Từ số không đến anh hùng” (From Zero to hero) như thế này. Sau đó, họ xoè ra những lá thư chấp nhận. “
“Ngoài ra, các biến tấu khác có thể là: cuộc sống của gia đình vô cùng vất vả khó khăn, cha mẹ lao động chân tay nhọc nhằn, biến cố lớn trong gia đình, gia đình ở vị thế yếu kém trong xã hội, cái chết của một người thân yêu trong gia đình, một sự kiện phân biệt chủng tộc, những bất lợi trong cuộc sống… Rồi sau đó, bạn nỗ lực, vươn lên khỏi nghịch cảnh. Rồi kết luận những điều đạo đức. Tất cả những điều tồi tệ đã xảy ra với cuộc sống của bạn, nhưng cuối cùng bạn vẫn là một người tốt, và bạn xứng đáng được học bổng.”
(Chiêu này không chỉ được vận dụng trong thư xin học bổng, mà còn trong các cuộc thi, phỏng vấn, gameshow, gọi vốn trên Sharktank…)
“Đây là một phần của hiện tượng lớn hơn, mà chúng ta cần phải thảo luận ngày hôm nay. Việc học sinh trung học thường xuyên viết về những chấn thương tinh thần sâu sắc nhất của cuộc đời trong những bài luận vào trường đại học, để hi vọng chứng minh rằng họ thú vị, kiên cường vượt qua nghịch cảnh thật sự không có lợi. Mà không chỉ một trường đại học đâu nhé, bạn ấy sẽ viết đi viết lại trong vòng cả năm trời, chỉnh sửa cả trăm lượt, và gửi đến mấy chục trường đại học. Sau đó, chấn thương tinh thần này có thể không chỉ dừng lại ở đó. Bạn đó sẽ tiếp tục sử dụng (hay lạm dụng) bi kịch đó để tiếp tục viết cho những bài luận ở cấp học cao hơn, hoặc các cuộc thi, các cuộc tuyển dụng khác.”
“Tôi tin rằng, điều này không chỉ tạo ra một tiêu chuẩn xấu trong việc đánh giá ứng viên, mà cũng vô cùng có hại cho bản thân người kể chuyện. Nó cũng tạo ra nhiều rủi ro và củng cố sự bất bình đẳng hiện có trong giáo dục đại học.”
“Trước hết, chúng ta hãy xem TẠI SAO học sinh lại lựa chọn kể những câu chuyện bi kịch như thế này? Một phần là vì các dữ liệu tuyển sinh hoàn toàn bí ẩn. Không ai tiết lộ cho chúng ta tiêu chí tuyển chọn thông qua các bài luận là như thế nào. Mọi thông tin chúng ta có được là đồn đoán, và chia sẻ lại cho nhau nghe mà không biết có tiêu chí rõ ràng nào cả. Lúc này, những giai thoại của từng cá nhân thành công được đem ra phân tích, mổ xẻ.”
“Tôi cũng đã nói chuyện với một người quen về việc nộp hồ sơ vào trường ĐH của bạn ấy. Bạn ấy kể, bạn đã phải chứng kiến cả cha và mẹ chết trong đại dịch COVID. Điều đầu tiên tôi nghĩ đến là, trời, đây chắc chắn là một nội dung rất hay để viết bài luận vào trường ĐH. Sau đó, lương tâm của tôi mới trỗi dậy và mới thể hiện sự đồng cảm với bạn ấy.”
Hội đồng tuyển sinh ở các trường ĐH cũng có một áp lực, đó là họ cảm thấy họ đóng một vai trò to lớn trong việc ảnh hưởng đến những đề tài mà các ứng viên sau này viết. Nếu họ để những bài luận mang tính bi thương đó giành được suất học, thì sau đó, những bí quyết này sẽ tiếp tục lan toả, và những lứa học sinh đi sau sẽ lấy đó là “mồi nhử”, khai thác sâu hơn và cuối cùng chúng ta chỉ có hàng loạt những bài luận kiểu, từ số không bi thảm hoá anh hùng.
Hãy lấy một ví dụ này từ Blog của ĐH MIT. Ở đây, tác giả so sánh hai phần mở đầu khác nhau của hai bài luận tiềm năng. Bài đầu tiên viết: “Tôi thấy rất vinh dự được nộp đơn vào học chương trình thạc sĩ ngành khoa học thư viện tại ĐH OKOBOJI. Tôi còn nhớ nổi từ rất lâu tôi đã có tình yêu đối với sách. Và đến lúc 11 tuổi, tôi đã luôn muốn trở thành một thủ thư.”
Bài luận thứ hai viết: “Khi tôi 11 tuổi, dì Gretchen vĩ đại của tôi đã qua đời, và để lại cho tôi một thứ đã thay đổi cuộc đời tôi mãi mãi. Đó là một thư viện gồm khoảng 5000 cuốn sách. Một ngày tuyệt vời nhất của tôi sẽ là ngồi sắp xếp lại đống sách trong thư viện. Kể từ đó, tôi luôn muốn trở thành một thủ thư.”
Người viết blog đã nhấn mạnh, cách viết thứ hai ấn tượng hơn nhiều và chất lượng tốt hơn so với bài 1.
Hãy xem tiếp một tips (mẹo) khác từ collegeessyguy.com. Ở đây, tác giả khuyên khuyên sinh viên hãy viết về một câu chuyện cá nhân, bao gồm cả những ký ức đau buồn, và những gì bạn học được từ bi kịch đó sẽ giúp bạn đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng của nhà trường. Khi đó, bạn sẽ thể hiện mình là một người khiêm tốn, dễ tiếp cận, dễ được yêu thích, và trưởng thành.
Một cựu nhân viên tuyển sinh của trường ĐH Geogetown cũng đã cho biết, trong một bài báo trên diễn đàn rằng “những bài luận cá nhân của các ứng viên người da đen, các chủng tộc thiểu số khác dễ bị giữ lại hơn những ứng viên da trắng. Những ứng viên da màu hay nhấn mạnh đến những biến cố trong cuộc đời và khả năng vươn lên của họ. Trong khi những ứng viên da trắng hay viết về những hoạt động cộng đồng ở nước ngoài, hay các giải đấu thể thao.
HỌC SINH DA ĐEN CHIA SẺ VỀ NỖI ĐAU QUÁ KHỨ, CÒN HỌC SINH DA TRẮNG CHIA SẺ VỀ NIỀM ĐAM MÊ
(Thay chữ da đen và da trắng thành chữ gì gì khác, kiểu như “nhà nghèo/ nhà giàu” hay “Châu Á/ Âu Mỹ” hay “Gia đình nhập cư/ gia đình bản địa” >> các bạn cũng thấy mô típ quen quen đúng không?)
Bây giờ, xin chia sẻ câu chuyện cuối cùng, và có lẽ là nguồn thông tin ít đáng tin cậy nhất, đó là câu chuyện của cuộc đời tôi. Tôi nhớ lại cảm giác này khi tôi nộp hồ sơ vào các trường đại học. Dường như tôi chẳng còn câu chuyện nào khác hấp dẫn hơn để kể, chẳng có trải nghiệm gì đáng nói cả, ngoài bi kịch cuộc sống trong quá khứ của mình. Tôi thậm chí còn lo lắng rằng, câu chuyện của mình không đủ bi thương, sau khi nghe từ một người tư vấn, rằng chuyện của những người nhập cư vượt qua khó khăn đã hơi sáo rỗng quá mức, vì đã bị dùng đi dùng lại quá nhiều lần.
Tất nhiên, cuối cùng thì quyền quyết định vẫn thuộc về các trường ĐH.
Quay lại câu chuyện ban đầu, vì sao việc sử dụng những bi kịch của bạn để viết bài luận vào ĐH lại chẳng giúp gì cho bạn?
Thứ nhất, việc bạn hồi tưởng lại những biến cố lớn trong cuộc sống, khiến bạn phải nhai đi nhai nỗi đau đó trong vòng nhiều tháng trời, biến hoá bài viết đó đến cả trăm lần, nộp cho nhiều trường ĐH. Đôi khi, bạn cảm thấy nó chưa đủ “bi kịch”, bạn phải tìm chọn những ngôn ngữ “học thuật” phức tạp để làm tăng tính bi kịch của câu chuyện lên.
Thứ hai, nếu bài luận của bạn thực sự như đang trải lòng với người đọc, thú nhận một kỉ niệm đau thương và “bí mật” với một người lạ mặt vô danh, để tìm kiếm sự đồng cảm. Bạn dễ tạo ra một giả định cực kì nguy hiểm (và rất sai sự thật) rằng người viết không thể đi xa, không thể thoát khỏi bóng đen của những ký ức bi thương. Đồng thời, những bi kịch đó cũng góp phần tạo nên giá trị và nhân cách của người viết.
Viết về quá khứ đầy bi kịch là con dao hai lưỡi. Nó có thể chứng minh rằng bạn đã mạnh mẽ vượt qua những khoảng thời gian tối tăm để vươn lên khỏi nghịch cảnh. Nhưng nó cũng có thể khiến nhiều người (trong hội đồng tuyển sinh) hiểu rằng bạn không có khả năng quản lý nghịch cảnh, nỗi đau trong quá khứ ám ảnh bạn quá lâu mà bạn không thoát ra được. Bạn không có gì thú vị ngoài biến cố trong quá khứ.
Cuối cùng, cái khó của người viết sẽ rơi vào tình huống khó xử là: câu chuyện của bạn phải vừa đủ buồn để nhận được sự đồng cảm từ hội đồng tuyển sinh, nhưng lại không được quá bi thảm khiến cho bạn giống như đang cần “từ thiện”. Nó cũng phải đủ nghiêm trọng để truyền cảm hứng cho sự thay đổi cuộc đời một con người, nhưng lại không được “quá liều” đến mức độ bạn đang chỉ trích hệ thống, đất nước mà bạn lớn lên. Nó phải đủ trung thực để câu chuyện “có thật”, nhưng cũng không được phơi bày hết ra, để tạo ra cảm giác khó chịu ở người lọc hồ sơ.
Với chỉ 500 từ, làm sao để bạn kể về bản thân thông qua một cuộc “lột xác” từ một người đầy bi thương, trở thành một người lạc quan, dũng cảm.
(Nếu so sánh mức độ đau thương, chắc câu chuyện bi kịch của Việt Nam khó có thể so sánh được với những bạn lớn lên ở khu ổ chuột Ấn Độ, Bangladesh, hay những bạn lớn lên dưới bom đạn chiến tranh, chia rẽ sắc tộc. Nếu chạy đua về mức độ bi thương, chắc chúng ta không có cửa. )
(Thế giới hôm nay có quá nhiều điều đáng để một người có nhiều khát vọng quan tâm giải quyết, hơn là xoay xung quanh một nỗi đau trong quá khứ mà chưa thoát ra được. Bạn hoàn toàn có thể nói về những vấn đề xã hội, hay tương lai toàn cầu, những vấn nạn cuộc sống mà chỉ có tri thức và chuyên môn bạn theo học mới giải quyết được. Điều đó sẽ chứng minh bạn “có tương lai” hơn là việc bạn chỉ nói về việc bạn có cảm giác không thuộc về đâu, bị ai đó cười khi bạn nói tiếng Anh ngọng nghịu, hay bạn bị bắt nạt trong quá khứ.)
Tuy nhiên, chính các trường ĐH cũng cần “chịu trách nhiệm” cho việc các bài luận về những “chấn thương” trong quá khứ ngày càng trở nên phổ biến. Lý do chính, là những bài luận kiểu này đã được duyệt, thậm chí được trao học bổng. Và người trước truyền cho người sau, cứ thế mọi người cố tìm ra một bi kịch trong quá khứ để mua sự cảm thông từ người chấm.
Một người trên là Trebek đã giúp những học sinh có thu nhập thấp tại vùng Oberlin viết bài luận của mình. Cô đã gặp một tình thế đạo đức rất oái oăm, là cô đã phải khuyến khích học sinh phơi bày ra những câu chuyện bi thương, lấy đi nhân phẩm của họ, để hòng đạt được cơ hội vào các trường ĐH đáng mơ ước.
Ở cuối bài phát biểu, cô Tina Yong gợi ý một số điều mà trường ĐH có thể làm để tránh tình trạng bi kịch hoá các bài luận như hiện nay:
Thứ nhất, các trường ĐH có thể minh bạch về cơ chế tuyển sinh, hoặc có thể nhắc nhở các ứng viên ngay từ đầu, gợi ý các ứng viên về mục tiêu trong tương lai, đặt câu hỏi về giải quyết những vấn đề trong xã hội.
Thứ hai, các nhà tuyển sinh nên cảm thấy cần chịu trách nhiệm về việc định hướng cho học sinh trung học, nói về những nỗi đau mà họ có thể chưa đủ mạnh mẽ để nói về hoặc đối mặt.
Thứ ba, đối với học sinh trung học, bạn giá trị hơn nhiều so với những bi kịch xảy ra trong đời bạn. Dù đó là một biến cố khách quan, nhưng đừng vì áp lực các bạn cùng lớp đang viết những kịch bản hoành tráng cho phim HBO, bạn cũng phải làm như vậy.
Bạn hãy chấp nhận rằng, bạn có một bi kịch căng thẳng tột độ trong quá khứ, nhưng bạn không còn muốn sống như vậy nữa. Bạn hãy tự hỏi, nếu như bạn nộp đơn vào trường ĐH đó một lần nữa, mà không bị áp lực phải dùng “chiến lược” nào để sử dụng những tổn thương quá khứ của mình để kiếm lấy sự cảm thương, thì bạn sẽ có thể viết về những vấn đề rất bất công bạn xem trên TV, từ đó nuôi dưỡng đam mê của bạn theo đuổi ngành khoa học chính trị.
(Bài viết lấy thông tin từ bản Ted Talk kinh điển triệu view Selling Trauma - Bán nỗi đau của cô Tina Yong
Người viết văn: cô Mai Mai)
---
Mai Mai - Founder @LifeMentor
Family Education Coach/ Mentor (Tư vấn giáo dục từ nền tảng gia đình).
Nơi đây, bạn có thể tìm thấy thông tin khoa học, chính thống, có bản quyền về chủ đề nuôi dạy con từ 6-18 tuổi, với các hoạt động chính:
(1) Homeschooling: khai thác các chương trình homeschooling quốc tế, xây dựng lộ trình học tập hiệu quả dựa theo mục tiêu của mỗi trẻ/ mỗi gia đình, phương pháp tự học, đọc sách, x10 kiến thức bằng các tài liệu tham khảo nâng cao, kết nối các giáo viên và cơ hội tham gia cuộc thi quốc tế cho trẻ.
(2) Mentor lộ trình du học, giành học bổng, các cuộc thi trong nước và quốc tế. Làm dày bộ hồ sơ để chuẩn bị cho hành trình du học. Đặc biệt các cuộc thi kinh doanh và dự án xã hội (thiết kế, vận hành, quản lý dự án). Kinh nghiệm: 100% hướng dẫn học trò đi thi là có giải.
(3)Kỹ năng thế kỷ 21: Life Mentor cung cấp các khoá học mua bản quyền từ các tổ chức uy tín quốc tế, được bản địa hoá để phù hợp với văn hoá, ngôn ngữ Việt Nam. Các khoá học xoay quanh mô hình 12 nhóm kỹ năng, tư duy quan trọng do OECD đề xuất. Hỗ trợ cha mẹ 80% trong việc cung cấp cho các con tư duy, kỹ năng, bộ phẩm chất, và các bài học quản trị cuộc sống chưa được dạy trong nhà trường.
(4) Kỹ năng coach dành cho cha mẹ: Mỗi cha mẹ đều có năng lực để trở thành một coach “siêu xịn” cho con. Life Mentor hướng dẫn cha mẹ các kỹ thuật coaching để kết nối sâu sắc và hiệu quả hơn với con, dẫn dắt và hỗ trợ con tốt hơn trong hành trình trưởng thành.
(5)Hướng nghiệp và chiến lược sự nghiệp: thông qua khoá học và kết nối với các Mentor có kinh nghiệm và đã thành công trong các lĩnh vực.
Chúng tôi xây dựng dự án Life Mentor như một di sản để lưu giữ những tri thức từ nhiều nguồn chính thống, khoa học trên thế giới, và đúc kết được từ nhiều Mentor xuất sắc.
Life Mentor mong muốn mọi trẻ em đều được thấu hiểu, tôn trọng, định hướng phát triển tiềm năng và sự nghiệp theo đúng năng lực và đam mê.
----
Liên hệ công việc: lifementor.vn@gmail.com
Website: https://lifementor.vn
Group FB https://www.facebook.com/groups/lifementor2021
Spotify https://spoti.fi/3zXawQT
Youtube: https://www.youtube.com/channel/UC7_rmsgL-OwgalsEoUwr9aA
Google podcast: https://bit.ly/3JGQcq9
TikTok: https://www.tiktok.com/@maimai_parenting
Các khoá học Life Mentor đang cung cấp: http://khoahoc.lifementor.vn